Nguồn: Cờ đỏ Thành phố Hồ Chí Minh
Gắn bó với nhân dân, dựa vào dân để xây dựng đảng (codotphcm.com)
Mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân là mối quan hệ bản chất, gắn liền với sự tồn tại và phát triển của Đảng. Lênin khẳng định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng; đồng thời, Người khẳng định đảng viên là “một danh hiệu vinh dự và đầy trách nhiệm[1]”. Mối liên hệ gắn bó máu thịt giữa đảng viên với quần chúng chính là nguồn gốc chủ yếu tạo nên sức mạnh của Đảng, của dân tộc, là một trong những điều kiện quan trọng giúp cho Đảng giữ vững được vai trò lãnh đạo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối liên hệ giữa đảng viên với quần chúng được thể hiện rất sâu sắc và phong phú. Quần chúng trong quan niệm của Hồ Chí Minh là những tầng lớp lao động đông đảo tạo nên nền tảng của xã hội. Theo Hồ Chí Minh, mục đích của việc đảng viên liên hệ chặt chẽ với quần chúng là để lãnh đạo quần chúng và học quần chúng. Mục đích này đồng thời cũng là hai mặt hoạt động cơ bản của người đảng viên trong mối liên hệ với quần chúng và có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, bổ sung cho nhau. Lãnh đạo quần chúng là chức năng, nhiệm vụ của đảng viên.
Sinh thời Lênin đã từng cảnh báo hai nguy cơ của các đảng cộng sản cầm quyền là sai lầm về đường lối và xa rời nhân dân. Nhìn lại lịch sử của các đảng cộng sản cho thấy khi đảng cộng sản cầm quyền nào không giữ được mối liên hệ với nhân dân, được nhân dân ủng hộ thì dù to lớn, có nhiều thành công lớn trong quá khứ vẫn suy yếu, thậm chí sụp đổ.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiền phong của giai cấp công nhân, mang bản chất giai cấp công nhân, nên phải gắn bó với nhân dân mà hạt nhân lãnh đạo là giai cấp công nhân. Hơn nữa, Đảng Cộng sản Việt Nam còn là đội tiền phong của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam nên tất yếu Đảng càng phải liên hệ mật thiết và bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động. Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Sự tin tưởng, ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân là cội nguồn của sức mạnh, là cái gốc của thắng lợi, là tài sản quý báu của Đảng[2]”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) một lần nữa khẳng định: “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng”[3].
Nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân được thể hiện trên những nội dung rất cụ thể. Mọi chủ trương, nghị quyết của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ. Đảng phải tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Tập hợp, động viên và tổ chức nhân dân tham gia các phong trào hành động cách mạng, thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng. Luôn chăm lo lợi ích của nhân dân bao gồm lợi ích về dân sinh và lợi ích dân chủ. Tạo điều kiện để nhân dân tham gia xây dựng Đảng. Cán bộ lãnh đạo phải thường xuyên đi sát cơ sở, đi sát nhân dân, trực tiếp trao đổi ý kiến với nhân dân, học hỏi kinh nghiệm sáng tạo của nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự trách nhiệm trong công việc, gương mẫu trong cuộc sống để người dân tin tưởng, noi theo.
Trong những năm qua, Đảng đã ban hành nhiều chủ trương, nghị quyết nhằm tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân. Đặc biệt, ngày 03 tháng 6 năm 2013, Ban Chấp hành trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 7 khóa XI về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”. Kể từ Nghị quyết Trung ương 08B-NQ/HNTW của Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa VI ngày 27 tháng 3 năm 1990 về “Đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân”, Nghị quyết 25-NQ/TW là Nghị quyết quan trọng thứ 2 chuyên đề về công tác dân vận với những quan điểm mới được bổ sung phù hợp thực tiễn. Trong những năm qua, nhiều nghị quyết, chủ trương đúng đắn của Đảng đã được ban hành đáp ứng lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, kịp thời giải quyết những vấn đề bức xúc mới phát sinh. Nhờ đó, đời sống của một bộ phận lớn nhân dân đã được cải thiện; quyền làm chủ của nhân dân đã được phát huy.
Đã có nhiều hình thức đa dạng, phong phú nhằm tập hợp nhân dân vào các tổ chức đoàn thể. Mối quan hệ gắn bó giữa Đảng và nhân dân được tiếp tục phát huy. Nhiều chủ trương lớn của Đảng đã được đông đảo các tầng lớp nhân dân hăng hái tham gia góp ý kiến xây dựng. Vai trò của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân ngày càng được chú trọng nhiều hơn bằng việc Đảng đã hành Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày 12-12-2013 của Bộ Chính trị “về quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội” và Quyết định 218-QĐ/TW ngày 12-12-2013 của Bộ Chính trị “về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị – xã hội tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền”.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ trong những năm qua, Đảng đã “Tiếp tục nâng cao nhận thức về đổi mới công tác dân vận của hệ thống chính trị, nhất là dân vận chính quyền gắn với công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, góp phần tạo đồng thuận, tăng cường mối quan hệ mật thiết của Đảng với nhân dân, phát huy vai trò nhân dân tham gia xây dựng Đảng[4]”. Từ thực tiễn công cuộc đổi mới, trực tiếp là 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Đảng đã rút ra một số bài học kinh nghiệm, trong đó bài học kinh nghiệm thứ 2 là: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; thắt chặt mối quan hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu, củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa[5]”. Tuy nhiên, Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng cũng chỉ ra những hạn chế, yếu kém cần khắc phục: “Công tác vận động, tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là những vấn đề liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng và trách nhiệm của nhân dân còn một số bất cập. Việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động; tập hợp, phát triển đoàn viên, hội viên; xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội và nhân dân ở một số nơi chưa thường xuyên, hiệu quả còn thấp, nhất là giám sát việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên[6]”.
Ngoài ra, nhiều hạn chế cũng đã được chỉ ra gần đây như: Quan hệ giữa Ðảng và nhân dân có lúc, có nơi bị xói mòn do những hạn chế, yếu kém trong công tác tư tưởng chính trị, công tác vận động quần chúng, công tác tổ chức cán bộ, công tác quản lý nhà nước và những khó khăn phát sinh trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế – xã hội. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả đảng viên là cán bộ lãnh đạo cấp cao đã thoái hóa, biến chất về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu dân diễn ra nghiêm trọng, kéo dài chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, nhất là trong các cơ quan công quyền, các lĩnh vực “nhạy cảm” làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Ðảng.
Để thực hiện tốt nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, hơn lúc nào hết đòi hỏi các cơ quan Nhà nước cần luôn nhanh chóng thể chế hóa và cụ thể hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc; hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách phát huy vai trò của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn của đất nước; bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; khắc phục những hạn chế, bảo đảm tác dụng, hiệu quả thực chất hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội; tạo sự đồng thuận xã hội. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bảo đảm mỗi người dân đều được thụ hưởng những thành quả của công cuộc đổi mới. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân. Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Các cấp ủy đảng và chính quyền phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc và yêu cầu chính đáng của nhân dân; tin dân, tôn trọng, lắng nghe những ý kiến khác; có hình thức, cơ chế, biện pháp cụ thể, thích hợp để nhân dân bày tỏ chính kiến, nguyện vọng và thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; trân trọng, tôn vinh những đóng góp, cống hiến của nhân dân. Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến giám sát quá trình thực hiện. Tập trung xây dựng những văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền làm chủ của nhân dân.
Phát biểu tại Hội nghị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên triển khai Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ các cấp ủy và cả hệ thống chính trị cần: “Nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức nhà nước về thực hành phong cách dân vận theo tấm gương, đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”; “Nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”, thực sự vì nhân dân, phục vụ lợi ích của nhân dân. Phải thật sự thấm sâu lời dạy của Bác Hồ: “Là công bộc của dân”, “đừng lên mặt quan cách mạng”; không phải trước mặt dân cứ viết lên trán hai chữ “Cộng sản” mà người ta nể sợ. Muốn vận động nhân dân thì trước hết mỗi công chức, đảng viên phải thực sự gương mẫu chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đi đầu hưởng ứng các phong trào thi đua, các cuộc vận động do Mặt trận và các đoàn thể phát động; thông qua hoạt động của Mặt trận và đoàn thể để đến với nhân dân, chúng ta cần xem đó là cơ hội để gần dân, sát dân, hiểu dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân; kiểm nghiệm xem các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước có đến được với nhân dân hay không, có thuận lòng dân hay không? Đồng chí nào thờ ơ với hoạt động của Mặt trận, đoàn thể thì cũng đồng nghĩa với xa rời quần chúng nhân dân. Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa là lụy dân, tiếp xúc với dân một cách hình thức, càng không “theo đuôi” quần chúng[7]”.
“Dân là gốc” là chân lý vĩnh hằng. Đảng phải gắn bó mật thiết với Nhân dân thì Đảng mới có sức mạnh, mới giữ vững và làm tròn vai trò lãnh đạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, để hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình, Đảng nhất thiết phải liên hệ chặt chẽ với quần chúng: “Giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi[8]”.
TS. Vũ Trung Kiên – Phó Trưởng khoa Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị khu vực II
[1] V.I.Lê-nin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1979, tập 8, tr. 288
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 304
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 65
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr. 76
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr. 96-97
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.II, tr. 205-206
[7] Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia Sự Thật, Hà Nội, 2022, tr. 116
[8] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 5, tr. 286.